Quên mật khẩu?

Ẩn quảng cáo

 

  Ma thổi đèn- kinh dị về nạn trộm mộ tại Trung Quốc

Go down 
Tác giảThông điệp
JongkEy™9a4
~ Member™
~ Member™
JongkEy™9a4


Giới tính Giới tính : Nam Pisces
Chinese zodiac Chinese zodiac : Rat
Bài viết Bài viết : 327
Xu Xu : 983
Thanked Thanked : 1
Sinh Nhật Sinh Nhật : 15/03/1996
Tham Gia Tham Gia : 01/08/2011
Tuổi Tuổi : 28
Yahoo Yahoo : Tây Ninh
Nghề Nghiệp Nghề Nghiệp : Học sinh 100000000000000000000000000000000000000000000000
Status Status : JongkEy The kEnBlock

 Ma thổi đèn- kinh dị về nạn trộm mộ tại Trung Quốc  Empty
Bài gửiTiêu đề: Ma thổi đèn- kinh dị về nạn trộm mộ tại Trung Quốc     Ma thổi đèn- kinh dị về nạn trộm mộ tại Trung Quốc  EmptyMon Aug 01, 2011 10:08 pm

Đôi nét về tác giả:

Thiên Hạ Bá Xướng ( bút
danh trên mạng là Bản Vật Thiên Hạ Bá Xướng), tên thật là Trương Mục Dã, sinh
năm 1978 tại Thiên Tân, Trung Quốc.

Sự nghiệp học tập bị gián đoạn từ những năm cấp III, Trương Mục Dã
đã làm rất nhiều nghề khác nhau, từ rửa bát cho đến phụ trách công ty tài chính.
Hiện nay, anh đang cùng bạn bè mở một công ty nhỏ ở Thiên Tân, viết văn là sở
thích nghiệp dư.

Ma thổi
đèn là tác phẩm đầu tay của Thiên Hạ Bá Xướng, đã được đăng tải trên internet
theo lối mỗi ngày một chương, nhưng sau khi xuất bản vẫn là một trong những cuốn
sách bán chạy nhất Trung Quốc năm 2006, 2007. Đồng thời, Thiên Hạ Bá Xướng cũng
đã mở ra một trường phái tiểu thuyết mới trên văn đàn Trung Quốc- phái Trộm mộ,
thu hút lượng độc giả lên đến vài chục triệu người. Hiện nay, Ma thổi đèn đang
được chuyển thể thành game online và điện ảnh.

Ngoài Ma thổi đèn ( bộ I và bộ II), tiểu thuyết
trường thiên mới nhất của Thiên Hạ Bá Xướng, Tặc Miêu cũng làm mưa làm gió trên
các bảng xếp hạng Trung Quốc suốt năm 2008 vừa qua.

Theo tác giả, tên bộ kỳ thư bát nguồn từ câu ngạn ngữ
" Người thắp nến, quỷ thổi đèn", vốn là bí thuật của phái Mô kim, một trong tứ
đại môn phái trộm mộ trong truyền thuyết, có nghĩa rằng khi tiến vào mộ cổ,
thoạt tiên phải thắp một ngọn nến ở góc Đông Nam hầm mộ, sau đó mới được bật nắp
quan tài; nếu như ngọn nến bị dập tắt, phải tức tốc rời khỏi mộ, và không được
lấy bất cứ vật gì. Tương truyền đây là khế ước giữa người sống và người chết, do
tổ sư truyền lại, tuân thủ ngàn năm. không được phá lệ.

__________________________________________________
___________________

Từ
ngàn năm trước, ở đất nước Trung Hoa đã có nghề trộm mộ, còn gọi là Mô kim hiệu
uý. Dám hành nghề đào mộ quật mả, can trường là chuyện nhỏ, còn phải là tay sâu
dày về huyền học, phong thuỷ... cũng như các loại cạm bẫy.

Hồ Bát Nhất, quân nhân
giải ngũ có cuốn sách bửu bối của ông nội; Tuyền Béo, con nhà lính,súng bắn như
chớp; Shirley Dương, nữ triệu phú Hoa kiều, cũng là cháu ngoại một tay trộm mộ
lẫy lừng - chính là Mô kim hiệu uý đương thời. Ba người, ba động cơ đã cùng dấn
bước vào sa mạc hung hiểm nhằm tìm toà thành cổ Tinh Tuyệt bí ẩn... Bản lĩnh có
thừa, chỉ tiếc là, họ không biết được những lời nguyền đáng sợ nào đang đợi
họ...

Ma thổi đèn , cuốn
kì thư về nghề trộm mộ, thật sự là một hiện tượng xuất bản ở Trung Quốc, được
coi là Da Vinci Code và Tom Raider ở nước này, và đã mở ra cả ở nước này một
trào lưu ganh đua xuất bản tiểu thuyết và sách về mồ mả huyền thuật ở đại lục
suốt mấy năm gần đây



Vào truyện

Trộm mộ chẳng phải việc tham
quan ngắm cảnh, chẳng phải ngâm thơ câu đối, chẳng phải thêu hoa dệt vóc, không
thể nhã nhặn khiêm nhường, không thể ung dung nhàn tản, chẳng thể tuần tự theo
tôn ti "thiên địa quân thân sư" cho được. Trộm mộ là một thứ kĩ thuật, một thứ
kĩ thuật phá hoại. Tự thủa xưa, khi các quý tộc xây dựng lăng mộ, ắt đã tìm đủ
mọi cách để phòng ngừa trộm cắp, vậy nên hẳn là có bao nhiểu thủ đoạn cũng đã
dùng hết cả rồi, trong mộ thường sắp đặt đủ loại cạm bẫy ám khí, nào đá tảng,
cát trôi, nào tên độc, rắn rết, hố chông...nhiều không kể xiết. Đến đời nhà
Minh, chịu ảnh hưởng của kỹ thuật phương Tây, một số ngôi mộ lớn thậm chí đã sử
dụng cả hệ thống bánh răng ròng rọc của phương Tây, đặc biệt là lăng của các
hoàng đế nhà Thanh, có thể coi là những kiệt tác gom thâu kỹ thuật phòng trộm
của mấy ngàn năm cũng xứng. Đại quân phiệt Tôn Điện Anh muốn khai quật Đông lăng
để lấy vàng bạc sung vào quân phí, đã huy động cả một đội quân, vừa đào bới vừa
nổ mìn cũng phải mất năm sáu ngày trời mới xong, độ kiện cố của mấy lăng ấy thế
nào chắc không cần nói cũng có thể mường tưởng ra được. Bài toán dành cho những
kẻ trộm mộ thời bấy giờ là phải nghĩ ra trăm phương nghìn kể phá giải những cạm
bẫy đó, đề vào mộ tìm kiếm báu vật. Thế nhưng hiện nay, việc tìm ra mộ cổ còn
khó hơn việc khai quật mộ nhiều lần, những ngôi mộ lớn xây theo kiểu đắp nấm
dựng bia rõ ràng thì đã bị người ta đào bới gần hết từ lâu rồi. Còn nếu muốn tìm
mộ cổ đã vùi sâu trong lòng đất nhiều năm, lại không có dấu mốc gì trên mặt đất,
thì phải cần đến một số kỹ thuật nhất định cũng như vài thứ công cụ đặc biệt,
các loại như khoan sắt, đinh tre, xẻng Lạc Dương, thám âm trảo, hắc triết tử,
toàn địa long nhất loạt đều từ đây mà ra. Ngoài ra, cũng có một số cao thủ lại
không dựa vào mấy thứ ấy, có người tìm mộ bằng cách lần tìm đầu mối được ghi
chép trong thư tịch cổ xưa, cũng có một số rất ít người hiểu được bí thuật, có
thể tìm ra mộ huyệt bằng khả năng xem phong thủy, đọc mạch tương đốicủa đồi núi
sông ngòi, bản thân tối chính là thuộc loại cuối cùng này. Tôi đã đặt chân qua
khắp mọi nẻo đường, trải qua vô số chuyện ly kỳ quái dị, nếu đem kể từng chuyện
ra, chắc hẳn sẽ khiến kẻ thấy kinh hồn, người nghe bạt vía, nói cho cùng thì
những sự tích lấp biển lật sông, xẻ đất che trời, hình rồng tướng hổ như vậy kể
ra đâu cũng phải tầm thường.

Những sự tích ấy bắt đầu phải kể từ cuốn sách cũ Thập lục tự Âm dương
Phong thuỳ bí thuật ông nội tôi để lại, cuốn tàn thư này, chẳng biết cớ gì mà
nửa cuối lại bị người ta xé toẹt đi rồi, chỉ còn lại phần đầu viết về bí thuật
phong thuỷ. Những điều trong sách, quá nửa là các bí thuật độc môn để đọc hiểu
bố cục phong thuỷ của mộ táng...

Chương thứ nhất

người giấy và anh bạn chuột

Nội
tôi tên gọi là Hồ Quốc Hoa. Tổ tiên nhà họ Hồ là địa chủ có tiếng trong vùng,
vào thời huy hoàng nhất đã từng mua hơn bốn mươi gian nhà liền kề nhau ở ba con
ngõ trong thành, trong họ cũng có người làm quan, có người đi buôn bán, cũng
từng quyên tiền hỗ trợ công việc tào vận và cung cấp thóc lúa cho triều đình Mãn
Thanh.

Tục ngữ có câu: "Không ai
giàu ba họ, không ai khó ba đời" kể cũng đúng thật, trong nhà dù có núi vàng núi
bạc, thì cũng không trụ được khi có những đứa phá gia chi tử chỉ biết ăn tàn phá
hại.

Đến những năm Dân Quốc, Hồ
gia truyền tới đời ông tôi thì gia đạo suy vi, thoạt tiên là chia nhà, gai sản
chia cho ông cũng không ít, đủ để ăn no mặc ấm suốt đời, thế nhưng ông lại không
chịu học điều hay lẽ tốt, đương nhiên điều này có ảnh hưởng đến hoàn cảnh xã hội
lúc bấy giờ, trước thì say mê cờ bạc, sau lại nghiện Phúc Thọ cao (1), cuối cùng
cả gia tài bị ông đem tiêu cho sạch bách.

Thời trai trẻ hút hít ăn chơi, không tệ nào ông không phạm, cuối cùng
thì quẫn đến nỗi một cắc chẳng còn. Người ta một khi đã lên cơn nghiện thì vò
ruột bứt gan, sao mà nhịn nổi, nhưng không có tiền thì ai cho ông hút? Trước kia
lúc có tiền có của, từ thằng chủ cho đến con hầu trong ổ hút hễ thấy ông lag
xoen xoét gọi "Hồ đại gia", tiếp đã ân cần chu đáo lắm, nhưng đến khi không xu
dính túi, thì chúng coi ông là thằng ăn mày, chúng vừa chửi vừa mắng và đánh
đuổi, hắt ông như thể hắt hủi vậy.

Người ta nhược bằng túng quẫn quá, thì mấy mớ quan niệm về đạo đức
liêm sỉ cũng có sá gì, nội tôi cũng nghĩ được một cách, đi lừa tiền ông cậu. Cậu
của ông tôi biết ông là thằng nghiện ngập phá gia chi tử, thường ngày thì một
hào một cắc chẳng cho, nhưng lần này ông phỉnh cậu, bảo rằng sắp lấy vợ, xin cậu
gom cho ít tiền.

Ông cậu nghe
nói vậy, xúc động đến nỗi nhạt nhoà nước mắt, thằng cháu bất hiếu giờ này mới
con như cũng làm được một việc tử tế, nếu kiếm được một cô cháu dâu hiền đức
trông coi nó cẩn thận, dạy dỗ nó có khi về sau lại khá lên cũng không chừng.

Vậy là ông cậu đưa nội tôi hai
mươi đồng Đại Dương, dặn rằng lấy vợ thì sau phải sống cho đàng hoàng, chớ dính
vào Phúc thọ cao nữa, để mấy hôm nữa rảnh, ông sẽ đích thân tới nhà xem mặt cháu
dâu.

1. Phúc thọ cao: vốn tên
của một vị thuốc, làm từ vỏ quả thẩu (tức "cù túc", gọi theo người Trung Hoa,
hay "nha phiến, a phiến" dịch theo từ "opium" trong tiếng Anh), có tác dụng làm
dịu cơn đau, dễ ngủ...(mọi chứ thích đều của dịch giả)

Ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi có rất nhiều trò ma mãnh, đễ
đối phó với cậu, sau khi về nhà, ông liền vào thôn tìm một tay thợ chuyên làm
mấy thứ người giấy, ngựa giấy (chính là loại để đốt cho người chết). Lão thợ này
tay nghề rất cao, chỉ cần là thứ có thể tả được là lão có thể làm ra giống hệt
như thế.

Theo yêu cầu của ông
nội, lão hàng mã làm ra một cô gái bằng giấy phết hồ, sau đó dùng màu nước vẽ
lên lông mày, mắt, mũi, áo quần, đầu tóc, nhìn từ xa, thì ôi thôi, trông giống y
như người thật vậy.

Ông nội tôi
cõng người giấy về nhà, đặt vào giường trong, lại đắp chăn lên, trong bụng tự
lấy làm yên tâm lắm, đợi mấy hôm nữa ông cậu đến, thì cứ viện cớ vợ ốm, nằm liệt
giường không thể tiếp khách, để ông cậu đứng nhìn từ xa là được. Ngấm thấy đắc
ý, ông bất giác hát rống lên vài câu, rồi chuồn luôn vào thành hút thuốc.

Mấy hôm sau, ông cậu quả nhiên
đến thật, lại còn mua vải vóc bánh trái thăm cô cháu dâu, nội tôi mang những lời
nhẽ đã toan tính từ trước ra lần lữa thác thoái, than rằng vợ không khoẻ, không
tiếp khách được, rồi vén rèm để cậu đứng ngoài nhìn, sau đó lại lập tức buông
ngay.

Ông cậu không vừa lòng,
mới nhủ, cái thằng ranh con này lại đối phó với cậu mày như thế à? Không được!
Hôm nay dứt khoát phải gặp được cháu dâu mới thôi, có bệnh thì cho tiền mời thầy
lang đến chữa!

Ông nội sống chết
níu ông cậu lại không cho vào, nhưng càng níu kéo thì ông cậu càng sinh nghi,
đôi bên cứ thế co kéo, cuối cùng không ngăn được, ông cậu chạy xộc vào nhà
trong, vừa nhìn lên giường, suýt nữa thì chết khiếp, một bộ mặt đàn bà trắng
bệch, còn phết đỏ tròn hai má, đôi mắt trợn ngược, nhìn thẳng lên trần nhà, rõ
ràng là một ả người giấy.

Mùa
xuân năm ấy đã xảy ra rất nhiều chuyện, vụ ông Hồ Quốc Hoa mua người giấy gạt
tiền bại lộ, ông cậu giận quá hoá bệnh, không ngồi dậy nổi, chưa đến ba hôm thì
rũ áo chầu trời.

Họ hàng bè bạn
của Hồ gia, ai cũng phòng nội tôi như phòng trộm, chớ cho vay tiền, ngay đến cơm
thừa cũng không cho ông lấy một miếng. Ông đành bán nốt đôi tủ gỗ đàn lấy hai
đồng bạc, chiếc tủ này là của hồi môn của cụ bà, ông vốn định giữ lại để tưởng
niệm, chưa nỡ đem đi cầm, nhưng khi cơn nghiện đã phát tác, thì cũng không còn
nghĩ ngợi được nhiều thế nữa rồi. Cầm hai đồng bạc ấy đi mua một dúm Phúc thọ
cao, chạy về nhà liện vội vã sà vào giường châm điếu thuốc hít mạnh hai hơi, cơ
thể bỗng dưng nhẹ bẫng, tựa hồ như đang chấp chới trên mây.

Lúc ấy, ông cảm thấy sướng như
lên tiên, dăm ba cái chuyện bị người ta khinh rẻ, ức hiếp, rồi bị mắng bị chửi
hàng ngày đều vặt vãnh cả. Hít thêm hai hơi tiếp, ông bỗng phát hiện ra năm trên
cái giường nát bươm của mình còn có một đống đen đúa xù xì, nhìn lại cho kỹ, hoá
ra góc giường có một con chuột cống to tướng đang chồm hỗm. Con chuột này ý
chừng phải sống lâu rồi, ria mép nó đã trắng cả, mình nó phải xấp xỉ con mèo. Nó
đang nẳm hít thứ khói bốc ra từ tẩu thuốc của Hồ Quốc Hoa, dường như cũng biết
đến lợi ích của thuộc phiện, lỗi mũi cứ khịt khịt tham lam tận hưởng.

Nội tôi bỗng thấy hứng thú lắm,
quay ra bảo con chuột: "Mày cũng nghiện thuốc hả? Xem ra tao với mày là người
đồng đạo rồi." Nói đoạn ông lại hút một hơi, rồi phả thứ khói nồng nặc ấy vào
con chuột, con chuột dường như biết ông tôi không có ác ý, cũng chẳng sợ ông,
bèn nghển cổ đón lấy làn khói đặc đương phả vào mình. Quá trưa, dường như đã
thoả mãn được cơn nghiện, con chuột cũng lững thững bò đi.

Mấy ngày liền đều như vậy, hôm
nào con chuột cũng bò đến cùng hít thuốc với ông nội, ông tôi đi đâu cũng bị
người ta khinh miệt, chung quanh chẳng có lấy một tấm bạn tâm tình, thấy con
chuột quần mình như vậy đâm ra thích chí, có lần con chuột đến hơi muộn, ông
cũng gắng nhịn cơn nghiện mà chờ nó.

Thế nhưng niềm vui ngắn ngủi chẳng tày gang, nhà ông nội bây giờ chỉ
còn lại chiếc giường trơ và bốn bức tường, chẳng còn đồng nào mà mua thuốc nữa,
ông ủ rũ vì hết cách, than thở với con chuột: "Chuột ơi chuột à, hôm nay là ngày
cùng tháng kiệt rồi, chẳng còn tiền mua Phúc thọ cao nữa đâu, e rằng chẳng được
cùng mày ngửi lại cái mùi nồng nàn ấy nữa." Nói dứt ông cứ sụt sịt không thôi.

Con chuột nghe những lời ông
nói, hai mắt long lanh chớp chớp như nghĩ ngợi gì, rồi bỗng quay ngoắt bỏ đi.
Đến khi trời tối, nó ngậm một đồng tiền bạc quay về nhà bên cạnh gối ông nội,
ông nội vừa mừng rỡ lại vừa kinh ngạc, liền chạy cả đêm vào thành mua lấy một
miếng Phúc thọ cao, về nhà là đốt ngay bên đèn, cùng con chuột hút một trận đã
đời no sướng.

Ngày hôm sau con
chuột lại ngậm ba đồng bạc tha về, ông nội mừng rơn khôn tả, nhớ lại một điển cố
được học từ thời còn trong trường tư thục trước đây, bèn nói với nó: "Kẻ biết
Quản Trọng, chính Bào Thúc Nha đó vậy, nay người biết ta bần hàn mà hậu đãi ta,
thật là tri kỉ của ta vậy, nếu chẳng chê bai, chúng ta hãy kết nghĩa kim lan
đi!" Từ đó ông với chuột xưng huynh gọi đệ, gọi là "anh chuột", ăn uống cùng
chia, thuốc hút chung hưởng, lại còn làm cho con chuột cái ổ bằng bông, để nó
cùng ngủ trên giường.

Người
chuột nương tựa, như đôi bạn tâm đầu ý hợp, con chuột hàng ngày đều đi tha bạc
về, ít thì một hai đồng, nhiều thì bốn năm đồng, từ đó ông nội chẳng còn gánh lo
cơm áo nữa. Bao năm về sau, mỗi khi nội tôi nhớ lại, vẫn nói rằng những chuỗi
ngày ấy là quãng thời gian vui sướng nhất đời ông.

Bẵng nửa năm trôi qua, ông tôi ngày một giàu có nhưng
trớ trêu thay chẳng phải có câu "Giàu sang gặp thầy bạn vàng, sa cơ lỡ vận gặp
toàn tiểu nhân" đó sao, cũng chỉ biết trách cái số ông nội Hồ Quốc Hoa của tôi
là số nghiệp số hạn, bị một thằng tiểu nhân nhòm ngó.

Trong thôn có thằng vô lại Vương Nhị, thằng này đâu bì
được với ông tôi, ông nội chí ít cũng từng giàu có, dù gì cũng từng là "Hồ đại
thiếu gia" ngót nghét hai chục năm, còn thằng Vương Nhị kia thì đâu có cái phúc
ấy, tổ tiên tám đời nhà hắn kể cả hắn bây giờ đều chưa từng mặc nổi cái quần nào
lành lặn. Vương Nhị thấy ông tôi gia nghiệp suy bại thì "cháy hàng xóm, vỗ tay
reo mừng", thỉnh thoảng lại vô duyên vô cớ bức hiếp làm nhục ông nội, bắt nạt Hồ
đại thiếu gia năm xưa mấy phen cho hả dạ.

Gần đây Vương Nghị lấy làm lạ, ông tôi là một tên nghèo đói chẳng có
công ăn việc làm, đồ đạc lại đều đem đi cầm cố cả, ngay đến họ hàng thân thích
cũng đã chết gần hết, chẳng hiểu cớ gì mà vẫn hút thuốc được như thường? Tiền
mua thuốc lấy đâu ra? Hắn bèn nghĩ bụng: nói không chừng thằng ấy lại đi ăn
trộm. Ta phải rình nó xem sao, đợi lúc nó thó đồ nhà người ta, mình bắt quả tang
rồi báo cho quan phủ, kiếm mấy đồng Đại Dương tiền thưởng cũng tốt.

Thế nhưng rình một thời gian,
phát hiện ông nội ngoại trừ những khi thi thoảng vào thành mua đồ ăn và thuốc
hút, thì căn bản là không bước chân ra khỏi cửa, mà cũng chẳng qua lại với bất
kỳ người nào. Càng tò mò muốn biết tiền ở đâu ra, Vương Nhị lại càng thấy bứt
rứt không yên.

Một hôm, nhân lúc
ông nội ra ngoài mua đồ, Vương Nhị thừa cơ trèo tường nhảy vào nhà trong, lục
lọi mọi nơi gầm bàn hốc tủ hòng tìm ra xem ông tôi rốt cuộc có bí mật gì. Đột
nhiên nhìn thấy trên giường có một con chuột to xù đang ngủ, hắn bèn tiện tay
vất luôn vào trong siêu nước đang đun trên lò, sau đó đậy nắp lại, nghĩ bụng họ
Hồ kia về nhà uống nước, ta sẽ nấp bên ngoài xem có trò hay ho.

Chẳng đợi Vương Nhị chạy ra, ông
nội đã về đến nhà, vừa vặn dồn chặn hắn lại bên trong. Vừa thấy con chuột bị
luộc chín trong siêu nước, tức thời mắt ông liền đỏ sọc lên, vớ ngay con dao
thái rau. chém vào thằng vộ lại họ Vương kia mười mấy nhát. May mà nội tôi là kẻ
nghiện ngập, chân tay yếu ớt nên tuy Vương Nhị bị chém trúng mấy nhát dao nhưng
cũng không có vết thương nào chí mạng cả, Vương Nhị máu me bê bết khắp người,
chạy thục mạng tới đội bảo an cầu cứu, đội trưởng đội bảo an là họ hàng với một
tay quân phiệt địa phương, bấy giờ đang mởi tay quân phiệt này nhắm rượu, tên
đội trưởng biết tin liền nội giận đùng đùng, giữa ban ngày ban mặt hành hùng
giết ngừơi còn coi vương pháp ra gì nữa? Vội sai ngay mấy tên thuộc hạ đi bắt
trói nội tôi về.

Ông nội bị giải
về đồn, tên đội trưởng nạt giọng quát hỏi, cớ sao cầm dao hành hung đòi giết
Vương Nhị.

Ông tôi nước mắt lưng
tròng, khóc nấc kể lại đầu đuôi sự tình, cuối cùng nói với giọng đầy ai oán:
"Nhớ khi xưa tôi khốn khổ khốn nạn, không có anh chuột tôi đã chẳng sống được
đến ngày hôm nay, nào ngờ chỉ sơ suất một chút đã để anh mất mạng, tuy không
phải do tôi giết nhưng anh chuột lai vì tôi mà chết. Tôi mà phụ người bạn hiền
dưới chín suối này thì tình nghĩa ở đâu? Một mình tôi làm một mình tôi chịu, đã
chém cái thằng không Vương Nhị vậy rồi, giờ muốn phạt muốn giết xin nghe đại
nhân phán xử, chỉ xin đại nhân cho tôi về nhà an táng anh chuột, rồi tôi chết
cũng nhắm mắt."

Không đợi tên
đội trưởng nói gì, tay quân phiệt bên cạnh đã cảm động xuýt xoa, nói với ông
tôi: "Mẹ kiếp! Không vong ơn chính là nhân, không phụ lòng tức là nghĩa, đối với
con chuột mà còn như vậy huống hồ đối với con người? Ta niệm tình cậu có nhân có
nghĩa, giờ lại không chốn nương thân, từ rày hãy theo ta tòng quân làm phó quan
đi."

Súng ống là chính quyền,
trong thời loạn lạc, lời của kẻ nắm giữ binh quyền chính là vương pháp. Tay quân
phiệt ra lệnh cho bọn thủ hạ dùng doi quất Vương Nhị một trận te tua để nội tôi
bõ tức, sau đó cho ông về an táng con chuột. Ông tôi trở về lấy hộp gỗ liệm xác
bạn chuột, rồi đào một cái hố chôn đi, khóc tỉ tê hồi lâu rồi mới dứt áo đi theo
tên quân phiệt kia.

Tục ngữ nói
hay thật: "Đói thời khoai ráy cũng ngon, no thời xôi thịt bấy còn dửng dưng".
Con ngừơi ta một khi nghèo khổ điêu đứng, người khác dẫu chỉ cho bát cháo, miếng
cơm thì hắn cũng cảm tạ ơn đức vô cùng, huống hồ con chuột kia lại mang về cho
ông tôi biết bao nhiêu tiền của. Đương nhiên tiền ấy cũng chỉ là tiền ăn cắp,
thánh nhân dạy dẫu chết cũng chẳng uống nước trộm dòng, có điều đó là tiêu chuẩn
đạo đức của những bậc vãng thánh tiên hiền, cổ nhân còn hiếm người làm được,
huống hồ là hạng phàm phu tục tử như Hồ Quốc Hoa! Trước thường nghe hút thuốc
trong phòng, lâu ngày chuột ruồi nghiện cả, lời này tình chẳng hề sai chút nào.


Chương II

" Thập lục tự âm dương phong
thủy bí thuật"

Từ đó trở đi ông
tôi đi làm lính, lại rất được trọng dụng, khốn nỗi cái thời ấy thiên hạ đại
loạn, quân phiệt hỗn chiến, chỉ cần nắm trong tay một đội quân trăm người là đã
có thể cát cứ một vùng, nay ngươi diệt ta, mai kẻ khác lại xử ngươi, chẳng mấy
thế lực có thể giữ được lâu dài. Thế lực của đội quân mà ông nội đi theo vốn dĩ
không lớn, chưa quá một năm đã bị một đạo quân khác đánh cho tơi bời khói lửa
trong trận chiến tranh giành địa bàn, kẻ thì chết, người thì bỏ chạy, ngay cả
tay quân phiệt trước đã cất nhắc Hồ Quốc Hoa cũng trúng đao tử trận.

Sau cuộc binh bại, ông nội chạy
về quê cũ, lúc bấy giờ gian nhà rách nát ngày xưa đã sập từ đời nào, lại vì chạy
trốn quá vội nên trên người cũng không mang theo đồng xu nào, hai ngày liên tục
không được ăn, công với con nghiện hoành hành, ông chẳng còn cách nào khác, đành
phải bán khẩu súng cho bọn thổ phỉ, đổi lại chút thuốc hút đồ ăn để giải quyết
mối nguy trước mắt.

Ông tôi trầm
từ tự nhủ, cứ tiếp tục thế này cũng chẳng phải cách, một dùm lương thực với
thuốc phiện này cùng lắm cũng chỉ có thể gắng gỏi được dăm ba hôm, nhưng ăn trơn
hít sạch rồi thì sau đó thế nào? Khi ấy ông mới chợt ra cách nhf chừng hơn trăm
dặm có khu Thập Tam Lý phố, chỗ ấy có rất nhiều mộ phần của các bậc đại quan
hiển quý, bên trong có vô số đồ tuỳ táng đáng tiền.

Ông Hồ Quốc Hoa lúc bấy giờ đã từng đi lính, từng đánh
trận, so với trước kia thì giờ đã to gan lớn mật hơn nhiều. Trước trong quân
đội, ông tôi từng được một tay binh sĩ già kể cho nghe nhiều chuyện đào trộm mộ,
trộm mộ trong dân gian vẫn thường gọi là "đổ đấu" (1), có thể phát tài lớn,
nhưng nếu bị bắt thì chỉ có nước bêu đầu, cho nên ông không dám hành động vào
ban ngày, đành đánh liều cầm đèn, vác cuốc đi tới khu mồ hoang Thập Tam Lý trong
một đêm trăng lông

(1) Đổ đấu:
tức hình dung việc trộm châu báu trong quan tài người chết nhuư đổ cái đấu ra
lấy gạo lấy thóc.

__________________________________________________
_________________________________________

Trăng lông là gì? Tức chỉ trời không mây, nhưng ánh trăng không sáng
mà mông lung mờ ảo. Đương nhiên người thời nay chúng ta đều biét, đầy là một
hiện tượng tự nhiên, trăng như vậy thường được gọi là trăng quầng, là điềm báo
sắp có gió to, nhưng người nhà quê thời ấy, nào ai biết vê khoa học. Ở một số
vùng quê dân cứ gọi đó là trăng mọc lông, có người còn nói đêm trăng u ám như
vầy, cũng chính là lúc cô hồn dạ quỷ thích ra ngoài lảng vảng nhất.

Vừa tới nơi, ông liền uống ngay
nửa cân rượu cho nóng người, lấy thêm can đảm. Đêm hôm ấy, trăng lạnh sao thưa,
gió âm se sắt, giữa nấm mồ hoang chập chờn những đốm ma trơi, phút chốc lại có
tiếng chim lạ kêu lên ken két, ngọn đèn trên tay lúc mờ lúc tỏ, tựa hồ có thể
phụt tắt bất cứ lúc nào.

Ông nội
tôi lấy giờ tuy đã uống rượu, nhưng vẫn đổ mồ hôi lạnh bởi cái chốn ma ám rợn
mình, bận này toi công, nửa cân rượu trắng uống vào coi như không, bao nhiêu
rượu đều theo lỗ chân lông chảy ra ngoài hết.

Cũng may đây là khu mộ hoang, xung quanh không một bóng
người, có gào hét ầm ỹ cũng chẳng sợ ai nghe thấy, ông tôi bèn hát vài khúc sơn
ca để tăng thềm dũng khí, nhưng ông chẳng biết hát mấy bài, được dăm ba câu thì
đã hết cả vốn, sau đành hát bừa mấy điệu quen thuộc hàng ngàt như "sờ mười tám
cái", "mong nhớ năm canh".

Ông
tôi đánh liều, run rẩy bước tới giữa khu nghĩa địa. Nơi đó có một nắm mộ lẻ loi
không bia, quái dị ở chỗ cỗ quan tài không hề được chôn xuống đất, mà lại cắm
thẳng đứng giữa mộ phần, để lộ ra ngoài quá nửa. Cố quan tài trông còn rất mới,
mười tám nước sơn đỏ bóng loáng dưới ánh trăng lờ nhờ chốc chốc lại ánh ra những
tia sáng kỳ dị.

Ông tôi lẩm bẩm
tự nhủ, cái quan tài sao lại đặt thế này cơ chứ? Mẹ tiên sư rõ quái đản, chỉ sợ
không phải tầm thường. Có điều đến cũng đã đến rồi, không mở ra xem thì chuyền
này đi công toi à? Hết tiền chết đói cũng là chết, không thuốc hút lên cơn cũng
chết, chả bằng để ma nó bóp chết luôn đi cho sưóng, ông đây cả đời toàn bị chúng
nó hiếp đáp rồi, tổ bà nó, hôm nay ông quyết liều một phen, đã làm làm đến cùng.

Nghĩ xong, ông nội liền vung
xẻng đào tung mớ đất chôn ngập nửa dưới quan tài lên, cả cỗ quan tài liền lộ ra
trước mắt. Vốn là tay nghiện ngập, thể lực lại yếu, đào có tí đất mà đã mệt lử
cả người. Ông không vội mở quan tài, ngồi bịch xuống đất moi ra ít thuốc mang
theo, đưa lên mũi hít một hơi.

Đại não bị thuốc phiện kích thích, thần kinh cũng phấn khích hơn, ông
nội tôi nghiến răng đứng phắt dậy, đưa xẻng nạy bung nắp quan tài ra, thi hài
bên trong không ngờ lại là một mỹ nữ, mặt mũi sáng sủa như người sống, có điều
phấn trát trên mặt quá dày, hai bên má lại đỏ hằn hai khoảnh son tròn, trên nền
phấn trắng càng nổi bật lên như hai lá cao đỏ ối. Trên mình thi thể khoác mũ
phượng dải mây, áo bào lục đỏ, ăn vận như một cô dâu.

Xác chết này vừa được chôn xuống , hay là đã chôn được
một thời gian rôi? Khu mộ này từ lâu đã bị bỏ hoang, mấy năm gần đây làm gì có
ai lai vãng? Lẽ nào ả ta hoá thành cương thi?

Nhưng lúc ấy, ông tôi chẳng còn nghĩ ngợi được gì nhiều,
trong mắt chỉ còn rặt những đồ trang sức treo đầy trên mình xác chết, trong ánh
đèn lay lắt đống châu báu lại lóe lên những tia sáng lấp lánh đến mê người,
ngoài ra đồ tuỳ táng còn có những đồng bạc được dùng giấy đỏ gói vào thành từng
cọc, và vô số những lá vàng, thật nhiều không đếm xuể.

Lần này giàu to rồi, ông nội tôi hí hửng thò tay gỡ
chiếc nhẫn lúc bảo thạch trên tay cỗ tử thi thì đột nhiên cổ tay bị một người
giữ lại, ông giật bắn mình, định thần nhìn lại, thò thấy người nắm cổ tay mình
hoá ra là một vị trưởng bối phong độ phi phàm.

THì ra lúc nội tôi tất tưởi chạy tơi Thập Tam Lý phố,
giữa đường đã gặp một ông thầy phong thuỷ họ Tôn, Tôn tiên sinh là pháp sư có
tiếng cả tỉnh, không những có thể coi số mệnh, xem phong thuỷ, mà còn biết bấm
tay tiên đoán, thông hiểu Ngũ hành độn giáp nữa.

Tôn tiên sinh thoạt thấy Hồ Quốc Hoa, đã phát hiện ngay
trên mặt ông tôi thấp thoáng có đám khí đen bao phủ, bấm đốt ngón tay, rồi đùng
đùng nổi giận, thằng ranh con này đinh đi đào mả quật mồ làm trò tổn hại âm đức,
nay gặp phải ta, ta quyết không thể để kệ thế được, nghĩ đoạn tiên sinh bèn đi
theo để ngăn cản.

Lúc bầy giờ
Tôn tiên sinh bất ngờ chộp lấy cánh tay Hồ Quốc Hoa, rồi quát lớn: "Thằng trộm
kia! Mày làm như vậy không sợ trời đánh thánh vật sao?"

Lời ấy vừa cất lên, ông nội tôi ngỡ như bị vả vào mặt,
vội quỳ sụp xuống, cầu xin Tôn tiên sinh tha mạng.

Tôn tiên sinh đỡ nội tôi lên, rồi nói: "Tuy ngươi đạo
đức băng hoại, nhưng chưa gây tội lớn, ngươi phải biết rằng quay đầu là bến,
muôn ta giúp ngươi không khó, có điều ngươi phải bái ta làm thầy, rồi cai hẳn
thuốc đi!"

Ông nội nghe bảo phải
cai thuốc, thoạt nghĩ thế chẳng bằng chết quách cái mạng mình đi cho xong, nhựng
đắn đo một hồi thì thấy phải chịu báo ứng cthì còn khổ hơn nhiều, lại nhủ, thôi
thì còn nước còn tát, cứ cầu xin lão tạm tha cho đã, sau này đợi lúc lão lơi là,
ta lại tiếp tục đi hút hít có sao, lão phát hiện thế nào được? Tính toán xong,
ông nội liền dập đầu, vái Tôn tiên sinh tám lạy để hành lễ bái sư.

Tôn tiên sinh thấy ông nội tôi
biết sửa lỗi, lấy làm hài lòng gật đầu, sau đó nhìn ra cỗ quan tài vừa bị nội
tôi mở ra, thấy xác chết trong còn y như đang sống, cũng không khỏi giật thót
mình, nhủ thầm, xem ra nơi đây là đất dưỡng thi, cái xác của cô gái này để lâu
ắt sẽ ương thành đại hoạ, cần phải diệt trừ sớm mới phải. Thế rồi tiên sinh dặn
dò ông tôi phải làm thế này thế kia...

Hai người hợp sức khuân nắp quan tài lên, gắng đẩy cho nắp ván đóng
lại, lấy đinh dài đóng thật chặt, lại còn dùng dâu mực vẩy lên khắp quan tài
những dây mực đan xen ngang dọc, tựa những ô cờ trong bàn cờ vây, từng dây mực
chen nhau tạo thành một tấm lưới đen ngòm, phủ kín lên cỗ quan tài quái dị.

Tiếp sau đó ông nội tôi chất củi
khô, đốt luôn cỗ quan tài sơn son thiếp bạc ấy, ngọn lửa bùng lên hừng hực, từng
luồng khói đen không ngừng bôc lên ngút trời, thối không ngửi nổi, cuối cùng chỉ
còn lại một đống tro tàn.

Ông
tôi lúc ấy mới nhớ ra trong quan tài còn bao nhiêu vàng bạc châu báu, liền giậm
chân thở dài, tiếc nuối vô cùng, nhưng đã quá muộn, đành dìu Tôn tiên sinh, theo
về ở cùng sư phụ.

Về sau, Tôn
tiên sinh dùng phương pháp bí truyền trị cho ông tôi khỏi nghiện, lại còn truyền
cho phép bói chữ với xem phong thuỷ. Nội tôi liền bày một sạp nhỏ trong huyện
thành, giúp người ta xem tướng, bói chữ, kiếm ít tiền vặt, rồi lấy một cô gái
dưới quê làm vợ. Ông đội ơn cứu mạng của sư phụ, từ đó về sau an phận thủ
thường, cuộc sống ngày một tốt hơn.

Song một lần Tôn tiên sinh bị cảm phong hàn, từ khi đổ bệnh đã mời
không biết bao thầy lang, uống rất nhiều thuốc mà bệnh tình mãi không thuyên
giảm, được vài năm thì tiên sinh cưỡi gió về trời.

Trước lúc lâm chung, Tôn tiên sinh có gọi nội tôi đến,
dặn rằng: "Ta và con có nghĩa thầy trò, ngặt nỗi kẻ làm thầy ta đây chưa kịp
truyền thụ cho con bản lĩnh gì thực thụ cả, nay ta có cuốn cổ thư Thập lục tự âm
dương phong thuỷ bí truyền ở đây, sách này tàn khuyết, chỉ còn có nửa quyển,
cũng chỉ chép mấy thuật coi phong thủy, tìm mộ huyệt mà thôi, con hãy giữ bên
mình làm kỷ niệm vậy." Tôn tiên sinh vừa nói xong, hơi thở chưa kịp hắt ra, đã
vội lìa chào nhân thế.

Ông nội
tôi an táng ân sư xong, những lúc rảnh rang lại nghiền ngẫm cuốn sách cũ của
thầy để lại, ngày rộng tháng dài, lâu dần cũng nắm được những lẽ ảo diệu bên
trong bắt đầu đi khắp huyện giúp người giàu tìm đất tốt để đặt mồ mả, dần dà có
tiếng tăm, gia nghiệp cũng ngày một hưng vượng.

Bà nội tôi sinh cho ông một người con trai, đặt tên là
Hồ Văn Tuyên, đến năm mười bảy tuổi, Hồ Văn Tuyen bố tôi được gửi lên tỉnh theo
học trường của giáo hội Anh Quốc, trai trẻ tính cách sôi nổi, không chịu ràng
buộc, đồng thời lại tiếp xúc với những luồng tử tưởng cách mạng tiến bộ, sục sôi
một bầu nhiệt huyết, đêm nào bố tôi cũng mơ được tham gia bạo động cách mạng,
cuối cùng thì quyết chí bỏ nhà ra đi, chạy đến thánh địa cách mạng, Diên An.

Về sau bố tôi nhập ngũ đến tận
khi đất nước bước vào công cuộc xây dựng đổi mới. Rồi tới chiến dịch Hoài Hà, bố
tôi được thăng lên làm trung đoàn trưởng của một trung đoàn, sau chiến dịch Độ
Giang, ông theo quân đoàn xuống phương Nam, đồng thời cũng đưa gia đình định cư
luôn ở dưới này.

Sau nữa thì tôi
ra đời, tôi lại sinh đúng vào ngày thành lập Quân đội Nhân Dân Trung Hoa mông
một tháng Tám, bố liền đặt tên là Hồ Kiến Quân, kết quả là khi đi mẫu giáo, cả
lớp có đến bảy tám đứa tên Kiến Quân, thấy nhiều đứa trùng tên quá, bèn đổi
thành tên tôi gọi là "Hồ Bát Nhất" ( tức mồng 1 tháng 8).

Ông nội tôi, Hồ Quốc Hoa, đùa
bảo: "Tên đổi hay lắm! Đơn hoà (hồ), Bát van, Nhất đồng (1) đây!"

(1) Đơn hoà, Bát vạn, Nhất đồng:
Bát vạn, Nhất đồng là tên hai quân bài. Đơn hoà là một trong những kiểu "ù" của
trò mạt chược. Người Bắc Kinh gọi "ù" là "hú", chữ ấy âm Hán Việt đọc là "hồ",
cùng âm với họ Hồ.

__________________________________________________
____________________________________

Năm tôi mười tám tuổi, gia đình tôi bị đấu tố, xuất thân của bố mẹ
tôi không mấy đẹp đẽ, cả hai người đều bị đem đi cách ly tra xét, còn ông nội
thì bị lôi đi diễu phố phê đấu mấy chuyện giả thần giả quỷ. Ông là người có
tuổi, lại chân yếu tay mềm, không chịu nổi dày vò chì chiết nên chẳng quá dăm
hôm đã về trời. Cả đời ông tôi coi phong thuỷ cho người ta, giúp người ta chọn
đất đặt mồ, vậy mà cuối đời lại bị đưa đi hoả táng. Sự đời vẫn luôn vô thường
như thế.

Nhà thôi cả thảy bị
soát ba đợt, tất cả những đồ đáng tiền đều bị tịch thu hết, ông nội tôi sinh
thời thích sưu tầm đồ cổ, mấy thứ này không bị đập cũng bị thu, chẳng món nào
còn được nguyên vẹn. Cuối cùng thì thứ duy nhất may mắn sót lại chính là cuốn
sách cũ mà ông bảo tôi đem gói trong túi vải dầu, cất lên nóc nhà xí.

Thành niên thời Cách mạng Văn
hoá có ba lựa chọn: một là nhập ngũ, đây là sự lựa chọn tốt nhất, vừa có thể rèn
luyện mình, sau này lại có thể đổi ngành được, phân về làm trong cơ quan nhà
nước. Thứ nữa là ở lại thành phố làm công nhân, như thế cũng hay, chí ít có tiền
lương dành dụm. Cuối cùng, xui xẻo nhất chính là những thành phần không có nhiều
mối quen biết, không có cửa sau, hoặc gia đình bị đấu tố như tôi, những thanh
niên này chỉ còn cách lên vùng núi hoặc về quê lao động mà thôi.

Bạn sẽ khuyên tôi nên lựa chọn
con đường thứ tư, là chẳng đi đâu hết, cứ ở im trong nhà, liệu có được không?
Như vậy cũng chẳng xong, thời buổi ấy không có cái khái niệm "ngồi chơi xơi
nước" đâu, mõi người đều là đinh vít của xã hội chủ nghĩa, đều có tác dụng cả.
Nếu như cứ ở trong nhà, thì Uỷ ban dân phố, trường học, Ban Thanh niên Trí thức,
họ nay đến, mai đến, ngày ngày đi lại như đèn kéo quân, động viên đến cùng thì
thôi. Nhưng có một số người cũng kiên trì đến phút chót, họ không đi đâu hết,
vậy thì làm gì được họ? Những người như thế rồi cũng được ở lại thành phố, được
bố trí công việc cho. Có nhiều việc là vậy đấy. chẳng thể nói cho rõ được, càng
sống càng hồ đồ, người ta chẳng bao giờ biết được quy tắc là gì, còn quy tắc
ngầm thì có phải ai cũng biết đâu.

Thời ấy tôi còn quá trẻ, cũng chẳng biết lên núi hay về quê cụ thể là
phải làm việc gì, dẫu sao với lí lịch này, có muốn nhập ngũ cũng chẳng có nước,
ở lại thành phố càng không ai lo sắp xếp vịêc cho, nếu không đi tham gia lao
động thì cũng chẳng biết đi đâu nữa. Lúc ấy tôi nghĩ bụng đi thì đi, trời cao
biển rộng trái tim hồng, đằng nào cũng là xa nhà, đã thế phải đi càng xa càng
tốt.

Phần lớn thanh niện chọn đi
Vân Nam, Tân Cương, tôi lại chọn đi đất Nội Mông, ngoài tôi ra còn có anh bạn
tên Vương Khải Tuyền, tay này trắng mà bự nên có biệt hiệu là "Tuyền béo".

Nơi chúng tôi đến gọi là trại
Cương Cương, địa danh này từ trước tới nay tôi chưa từng nghe thấy. Khi lên tàu
đi xa, không ai đến tiễn chúng tôi, so với cảnh tượng náo nhiệt lúc người ta đưa
tiễn người đi nhập ngũ, tình cảnh của bọn thanh niên trí thức như chúng tôi thê
thảm mà bi tráng hơn nhiều. Tôi chỉ mang theo trên người duy nhất cuốn Thập lục
tự âm dương phong thuỷ bí thuật giấu trên nóc nhà xí công cộng, tôi cũng chẳng
biết đấy là sách gì nữa, chỉ biết đây là thứ duy nhất còn sót lại của gia đình,
cứ mang theo bên người, những lúc nhớ nhà lại đem ra xem cho khuây khoả cũng
tốt.
Về Đầu Trang Go down
 
Ma thổi đèn- kinh dị về nạn trộm mộ tại Trung Quốc
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Thợ mỏ Trung Quốc đào được đĩa bay
» Trung Quốc tuyên bố cần 3 tàu sân bay
» Smartphone Trung Quốc giá hấp dẫn .
» Tàu Việt Nam đuổi đít tàu Trung Quốc =))
» Người phụ nữ bị chồng tra tấn như thời trung cổ

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Kênh thông tin giải trí dành cho teen việt :: ıllıllıTHẾ GIỚI GIẢI TRÍ ıllıllı ::  Thế Giới Truyện...!!! :: Truyện Ma-
Chuyển đến