Nguyên Chủ tịch nước Võ Chí Công: 1912 – 2011Sau một thời gian lâm bệnh nặng, ông Võ Chí Công đã từ trần ngày
8-9-2011 tại TP HCM. Tang lễ ông Võ Chí Công được tổ chức trọng thể theo
nghi thức Quốc tang.
Ngày 13-4-1992, tại phủ Chủ tịch, Chủ tịch HĐNN Võ Chí Công ký công bố Hiến pháp nước CHXHCNVN 1992 - Ảnh: TTXVN Ông Võ Chí Công (tên thật là Võ Toàn), sinh ngày 7-8-1912, tại xã
Tam Xuân, huyện Tam Kỳ (nay là xã Tam Xuân I, huyện Núi Thành), tỉnh
Quảng Nam. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930, vào Đảng Cộng
sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) tháng 5-1935. Ông Võ Chí
Công từng giữ nhiều chức vụ cao trong bộ máy lãnh đạo Đảng, Nhà nước: Ủy
viên Bộ chính trị các khóa IV, V, VI; Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt
Nam (1987-1992)
Trong suốt sự nghiệp của mình, ông Võ Chí Công đã có nhiều đóng góp
cho cách mạng và đất nước. Cùng với các ông Nguyễn Văn Linh, Võ Văn
Kiệt, ông Võ Chí Công là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ và có vai
trò tích cực đối với sự nghiệp Đổi Mới đất nước giai đoạn 1986 – 1988.
Với những đóng góp của mình, ông đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng
Huân chương Sao vàng năm 1992. Ngày 6-8-2011 Đảng, Nhà nước đã mừng
Thượng thọ 100 tuổi của ông.
Hòa thượng Thích Thanh Tứ: 1927 – 2011Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ viên tịch ngày 26-11-2011 tại Hà Nội.
Hòa thượng Thích Thanh Tứ tại Lễ đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh. Ảnh: VOV News. Hòa thượng Thích Thanh Tứ, thế danh Trần Văn Long, sinh năm 1927 tại
thôn Miêu Nha, xã Song Mai, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên trong một gia
đình nông dân nghèo.
Thấm nhuần tư tưởng “Phật pháp bất ly thế gian giác” với truyền thống
yêu nước “Hộ quốc an dân” của Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng đã sớm
giác ngộ Cách mạng, tích cực tham gia hoạt động bí mật trong lòng địch,
ủng hộ các phong trào Cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Mặt trận Việt Minh.
Ngày 12-10-2011, Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Tứ được Chủ tịch
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký quyết định trao tặng Huân
chương Hồ Chí Minh vì đã có nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp vào sự
nghiệp phát triển của Dân tộc.
Giáo sư, Tiến sỹ, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Tài Cẩn: 1926 – 2011GS, TS, NGND Nguyễn Tài Cẩn từ trần ngày 25/2/2011 tại Matxcơva, sau một thời gian bị bệnh.
GS, TS, NGND Nguyễn Tài Cẩn. GS Nguyễn Tài Cẩn sinh ngày 2-5-1926, tại làng Thượng Thọ, huyện
Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình Nho học. Ông là một trong
những chuyên gia đầu ngành của ngành Ngôn ngữ học Việt Nam.
Ông đã có công lớn trong việc xây dựng chuyên ngành Ngôn ngữ học tại
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay là khoa Ngôn ngữ học của trường Đại
học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ông để lại khối lượng công trình nghiên cứu rất đồ sộ. Đó là Ngữ pháp
tiếng Việt – từ ghép, đoản ngữ - tập hợp một số bài giảng về ngữ pháp
tiếng Việt hiện đại, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt - công trình
nghiên cứu về quá trình phát triển ngữ âm tiếng Việt trên cơ sở lý
thuyết ngữ âm hiện đại, có liên hệ với các ngôn ngữ có liên quan như
tiếng Êđê, tiếng Khmer, âm vận học Trung Quốc, Nguồn gốc và quá trình
hình thành cách đọc Hán–Việt - công trình nghiên cứu sự ra đời cách đọc
Hán - Việt…
Năm 2000, GS Nguyễn Tài Cẩn đã được Nhà nước Việt Nam tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
Nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến: 1930 – 2011Nhà văn, nhà giáo Hoàng Ngọc Hiến mất ngày 24-1-2011 tại bệnh viện Hữu Nghị (Hà Nội).
Nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến - Ảnh: SGTT Ông Hoàng Ngọc Hiến sinh ngày 21-7-1930 tại Nam Định. Sau năm 1945,
ông cùng gia đình đi tản cư, học Trường trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc
Kháng ở Vinh và được gửi đi đào tạo ở Liên Xô (cũ). Về nước, ông lần
lượt giảng dạy ở các trường Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Văn hóa,
Trường Viết văn Nguyễn Du (và ông đã nhiều năm làm hiệu trưởng ngôi
trường này).
Dù ông Hoàng Ngọc Hiến không có học hàm giáo sư chính thức của Nhà
nước nhưng ông được các trí thức và báo giới Việt Nam khâm phục, kính
trọng và trìu mến gọi là “giáo sư của các giáo sư”.
Coi tiếng Việt là nền tảng, gốc rễ cho việc nghiên cứu văn
học, ông trình làng năm 1965 bằng tiểu luận “Triết lý Truyện
Kiều”, được đánh giá là "hay và thuyết phục”. Ông được cho là
người nêu ra định nghĩa “Văn học phải đạo”.
Không chỉ được coi là bậc thầy của một thế hệ nghiên cứu và
viết văn như Phạm Xuân Nguyên, Tạ Duy Anh, ông Hiến còn có tác
động đến lớp cầm bút trẻ hơn như Lê Thiếu Nhơn, Phan Hồng Giang…
Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1987, và có các học trò nhà
văn thành danh như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Trọng Tạo…
Giáo sư, Tiến sỹ khoa học Vũ Đình Cự: 1936 – 2011GS, TSKH Vật lý Vũ Đình Cự, Chủ tịch Ủy ban Hòa bình Việt Nam qua đời ngày 7-9-2011, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
GS, TSKH Vật lý Vũ Đình Cự Ông Vũ Đình Cự sinh ngày 15/2/1936, quê ở xã Đông Xuân, huyện Đông
Hưng, tỉnh Thái Bình. Ông nguyên là Phó Chủ tịch Quốc hội kiêm Chủ nhiệm
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng khóa VII, VIII.
GS, TSKH Vật lý Vũ Đình Cự thuộc thế hệ các nhà khoa học được đào tạo
ngay sau ngày giải phóng Thủ đô, cùng khóa với các nhà vật lý Nguyễn
Văn Hiệu, Đàm Trung Đồn, Vũ Thanh Khiết, các nhà sử học Đinh Xuân Lâm,
Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, các nhà toán học Hoàng Hữu
Đường, Nguyễn Thừa Hợp, Nguyễn Bác Văn...
Năm 1972, Tiến sĩ Vũ Đình Cự làm tổ trưởng tổ nghiên cứu thiết kế,
chế tạo khí tài phá thủy lôi (mật danh GK1) để chống lại thủy lôi chiến
lược MK52 của Mỹ, khí tài phá bom từ trường (mật danh GK2). Công trình
này giúp ông cùng tập thể được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Hai chính khách 'vang bóng' của chính quyền Sài Gòn qua đời năm 2011: Ông Nguyễn Cao Kỳ (1930
– 2011): Ông từng là Thủ tướng (1965-1967) và Phó Tổng thống
(1967-1971) của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông Nguyễn Cao Kỳ là
người nhận được nhiều mô tả và bình luận trái chiều từ nhiều phía. Ông
qua đời ngày 23-7-2011 tại một bệnh viện ở Malaysia, tro hỏa táng được
đưa về Mỹ.
Bà Trần Lệ Xuân (1924 – 2011): Bà là vợ của ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính quyền ở miền
nam Việt Nam trước giải phóng. Ông Nhu làm cố vấn cho anh trai là Ngô
Đình Diệm, người đứng đầu chính quyền ở miền nam Việt Nam từ năm 1955
đến 1963. Bà Trần Lệ Xuân có nhiều hoạt động trên chính trường trong
thời gian nói trên. Do anh chồng là ông Diệm không có vợ, gia đình bà
lại sống trong dinh Độc Lập, nên bà Xuân thường được coi như đệ nhất phu
nhân thời đó. Bà Trần Lệ Xuân qua đời ngày 24-4-2011 tại một bệnh viện ở
Rome, Italia.